EU hướng tới việc thành lập các dự trữ chiến lược của đất hiếm
Liên minh châu Âu (EU) dự định tạo ra các kho dự trữ khẩn cấp các khoáng sản quan trọng, bao gồm kim loại đất hiếm, cùng với bộ dụng cụ sửa chữa cáp. Quyết định này được đưa ra trong bối cảnh ngày càng có nhiều lo ngại về sự dễ bị tổn thương của khối trước các cuộc tấn công và các mối đe dọa hỗn hợp.
EU Nhằm Thiết lập Dự trữ Chiến lược về Đất hiếm — Financial Times, ngày 5 tháng 7
Theo báo cáo của Financial Times và được Hãng Thông tấn Liên Hợp Quốc trích dẫn, Brussels đã thông báo ý định xây dựng các kho dự trữ khẩn cấp các khoáng sản quan trọng, bao gồm kim loại đất hiếm, cũng như bộ dụng cụ sửa chữa cáp. Động thái này phản ánh những lo ngại ngày càng tăng về việc EU dễ bị rủi ro.
Chi tiết
Trong một dự thảo tài liệu phác thảo chiến lược dự trữ, Ủy ban châu Âu tuyên bố: “EU đang phải đối mặt với một bối cảnh rủi ro ngày càng phức tạp và xấu đi, được đặc trưng bởi sự gia tăng căng thẳng địa chính trị, bao gồm xung đột, tác động của biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, suy thoái môi trường, các mối đe dọa hỗn hợp và các mối đe dọa trên không gian mạng.”
Cơ quan điều hành của EU nhấn mạnh rằng các quốc gia thành viên nên phối hợp dự trữ các nguồn cung cấp như thực phẩm, thuốc men và thậm chí cả nhiên liệu hạt nhân.
Nó cũng sẽ đẩy nhanh các nỗ lực xây dựng dự trữ cấp EU các vật liệu như mô-đun sửa chữa cáp “để đảm bảo phục hồi nhanh chóng sau các gián đoạn trong cáp năng lượng hoặc cáp quang”, cũng như các hàng hóa quan trọng đối với hệ thống năng lượng và quốc phòng, bao gồm kim loại đất hiếm và nam châm vĩnh cửu.
— Ấn phẩm lưu ý.
Trong những năm gần đây, một số vụ việc phá hoại tiềm ẩn nhắm vào cáp thông tin liên lạc dưới biển và đường ống dẫn khí đốt đã làm dấy lên lo ngại về sự dễ bị tổn thương của cơ sở hạ tầng quan trọng.
Chiến lược này là một phần trong những nỗ lực rộng lớn hơn của EU nhằm tăng cường an ninh và ổn định của khối 27 quốc gia. Tháng trước, Tướng Carsten Breuer, Tổng thanh tra Lực lượng Vũ trang Đức, đã cảnh báo rằng Nga có thể tấn công một quốc gia thành viên EU trong vòng bốn năm tới.
Tài liệu nhấn mạnh rằng môi trường rủi ro cao được thúc đẩy bởi “sự gia tăng các hoạt động của những kẻ tấn công mạng, tội phạm mạng và các nhóm được nhà nước hậu thuẫn.”
EU cũng dễ bị tổn thương hơn trước biến đổi khí hậu so với nhiều khu vực khác, với tình trạng ấm lên diễn ra với tốc độ gấp đôi mức trung bình toàn cầu. Tuần này, cháy rừng ở Crete đã buộc 5.000 người phải sơ tán khỏi hòn đảo.
Trong một báo cáo do EU ủy quyền vào tháng 10, cựu Tổng thống Phần Lan Sauli Niinistö tuyên bố rằng an ninh nên được coi là một “lợi ích công cộng” và kêu gọi sự chuẩn bị.
Liên quan đến dự trữ, ông gợi ý rằng Brussels nên “xác định các mục tiêu để đảm bảo mức độ chuẩn bị tối thiểu cho các tình huống khủng hoảng khác nhau, bao gồm cả hành động gây hấn vũ trang hoặc gián đoạn quy mô lớn trong chuỗi cung ứng toàn cầu.”
Vào tháng 3, EU cũng khuyến nghị các hộ gia đình dự trữ các nguồn cung cấp thiết yếu để đối phó với khủng hoảng trong ít nhất 72 giờ.
EU đã duy trì một đội máy bay và trực thăng chữa cháy trên 22 quốc gia thành viên, máy bay sơ tán y tế và các mặt hàng như bệnh viện dã chiến và vật tư y tế quan trọng như một phần trong nỗ lực ứng phó thảm họa khẩn cấp.
Tuy nhiên, Ủy ban châu Âu tuyên bố rằng họ sẽ thành lập một “mạng lưới dự trữ” để cải thiện sự phối hợp giữa các quốc gia EU. Tài liệu lưu ý rằng “có sự đồng thuận hạn chế về những hàng hóa thiết yếu cần thiết để chuẩn bị cho khủng hoảng trong một môi trường rủi ro đang thay đổi nhanh chóng.”
Nó cũng sẽ bắt đầu biên soạn các danh sách cập nhật thường xuyên về các nguồn cung cấp thiết yếu phù hợp với từng khu vực và loại khủng hoảng. Tài liệu cho biết thêm rằng các quốc gia thành viên EU nên cung cấp các ưu đãi tốt hơn, chẳng hạn như giảm thuế, để khuyến khích khu vực tư nhân giúp xây dựng hàng tồn kho.
EU cũng phải hợp tác với các đồng minh về “lưu trữ chung” và cải thiện sự phối hợp với NATO về quản lý tài nguyên và cơ sở hạ tầng sử dụng kép.
Một đề xuất ngân sách đa năm mới, sẽ được giới thiệu vào cuối tháng này, cũng sẽ giải quyết nhu cầu đầu tư vào dự trữ quan trọng.
Dự thảo tài liệu dự kiến sẽ được công bố vào tuần tới và có thể trải qua các sửa đổi trước khi được hoàn thiện.
Các biện pháp tạm thời để quản lý kiểm soát tổng số lượng của việc tách khai thác và đúc đất hiếm
(Được ban hành theo Quyết định số 71 của Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin, Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia và Bộ Tài nguyên vào ngày 28 tháng 7 năm 2025, có hiệu lực kể từ ngày ban hành.)
Điều 1 Các Biện pháp này được xây dựng theo Luật Tài nguyên Khoáng sản của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Quy định Quản lý Đất hiếm, và các luật, quy định hành chính và quy định của nhà nước có liên quan khác, nhằm tăng cường quản lý kiểm soát tổng số lượng khai thác và tách chiết đất hiếm.
Điều 2 Theo các Biện pháp này, "khai thác đất hiếm" đề cập đến quá trình sản xuất khai thác và làm giàu các loại quặng đất hiếm khác nhau, chẳng hạn như bastnaesite, quặng đất hiếm hấp thụ ion và quặng đất hiếm hỗn hợp, để sản xuất các sản phẩm khoáng sản đất hiếm.
"Tách chiết đất hiếm" đề cập đến quá trình sản xuất chế biến các sản phẩm khoáng sản đất hiếm để tạo ra các loại oxit, muối và các hợp chất đất hiếm đơn lẻ hoặc hỗn hợp khác nhau.
Điều 3 Nhà nước thực hiện quản lý kiểm soát tổng số lượng đối với khai thác đất hiếm (bao gồm các sản phẩm khoáng sản đất hiếm, v.v.) và đối với việc tách chiết các loại sản phẩm khoáng sản đất hiếm khác nhau (bao gồm cả tinh quặng monazit) thu được thông qua khai thác, nhập khẩu hoặc chế biến các khoáng sản khác.
Điều 4 Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia, chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về kiểm soát tổng số lượng khai thác và tách chiết đất hiếm.
Các sở, ban, ngành có thẩm quyền về công nghiệp và công nghệ thông tin và tài nguyên thiên nhiên của chính quyền nhân dân địa phương từ cấp huyện trở lên chịu trách nhiệm quản lý kiểm soát tổng số lượng khai thác và tách chiết đất hiếm trong phạm vi hành chính tương ứng của mình theo phân công nhiệm vụ.
Điều 5 Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia, sẽ nghiên cứu và xây dựng các chỉ tiêu kiểm soát tổng số lượng hàng năm đối với khai thác và tách chiết đất hiếm (sau đây gọi là "chỉ tiêu kiểm soát tổng") dựa trên các yếu tố như mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia, trữ lượng và sự khác biệt về chủng loại tài nguyên đất hiếm quốc gia, sự phát triển của ngành công nghiệp đất hiếm, bảo vệ môi trường sinh thái và nhu cầu thị trường, và trình lên Quốc vụ viện để phê duyệt.
Điều 6 Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin, phối hợp với Bộ Tài nguyên, sẽ, dựa trên các chỉ tiêu kiểm soát tổng đã được Quốc vụ viện phê duyệt và xem xét toàn diện các yếu tố như năng lực sản xuất, trình độ kỹ thuật và hiệu quả bảo vệ môi trường và an toàn của các doanh nghiệp sản xuất đất hiếm, tinh chỉnh và phân bổ các chỉ tiêu kiểm soát tổng, ban hành cho các doanh nghiệp khai thác đất hiếm và các doanh nghiệp tách chiết đất hiếm (sau đây gọi chung là "doanh nghiệp sản xuất đất hiếm"), và thông báo cho các sở, ban, ngành có thẩm quyền về công nghiệp và công nghệ thông tin và tài nguyên thiên nhiên của chính quyền nhân dân tỉnh có liên quan.
Các sở, ban, ngành có thẩm quyền về công nghiệp và công nghệ thông tin và tài nguyên thiên nhiên của chính quyền nhân dân tỉnh sẽ thông báo cho các sở, ban, ngành có thẩm quyền về công nghiệp và công nghệ thông tin và tài nguyên thiên nhiên của chính quyền nhân dân địa phương từ cấp huyện trở lên nơi các doanh nghiệp sản xuất đất hiếm đặt trụ sở về việc ban hành các chỉ tiêu kiểm soát tổng.
Điều 7 Các doanh nghiệp sản xuất đất hiếm phải tuân thủ nghiêm ngặt luật pháp, quy định hành chính và các quy định liên quan của nhà nước, và tham gia vào khai thác và tách chiết đất hiếm trong phạm vi các chỉ tiêu kiểm soát tổng.
Các doanh nghiệp sản xuất đất hiếm phải được Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin chỉ định phối hợp với Bộ Tài nguyên.
Ngoại trừ các doanh nghiệp được chỉ định theo đoạn trước, không tổ chức hoặc cá nhân nào khác có thể tham gia vào khai thác hoặc tách chiết đất hiếm.
Điều 8 Các doanh nghiệp sản xuất đất hiếm phải chịu trách nhiệm thực hiện các chỉ tiêu kiểm soát tổng tương ứng của mình.
Điều 9 Các doanh nghiệp sản xuất đất hiếm phải báo cáo kịp thời tình hình thực hiện hàng tháng và hàng năm các chỉ tiêu kiểm soát tổng của họ cho các sở, ban, ngành có thẩm quyền về công nghiệp và công nghệ thông tin và tài nguyên thiên nhiên của chính quyền nhân dân cấp huyện nơi họ đặt trụ sở.
Các sở, ban, ngành có thẩm quyền về công nghiệp và công nghệ thông tin và tài nguyên thiên nhiên của chính quyền nhân dân địa phương từ cấp huyện trở lên phải tổng hợp tình hình thực hiện hàng tháng và hàng năm các chỉ tiêu kiểm soát tổng của các doanh nghiệp sản xuất đất hiếm trong phạm vi hành chính của họ và báo cáo kịp thời cho các sở, ban, ngành có thẩm quyền về công nghiệp và công nghệ thông tin và tài nguyên thiên nhiên của chính quyền nhân dân cấp trên trực tiếp.
Điều 10 Các doanh nghiệp sản xuất đất hiếm phải thiết lập hệ thống ghi chép luồng sản phẩm đất hiếm, ghi lại chính xác thông tin luồng sản phẩm đất hiếm và nhập thông tin luồng của tháng trước vào hệ thống thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm đất hiếm do Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin thiết lập phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan trước ngày 10 hàng tháng.
Điều 11 Các doanh nghiệp sản xuất đất hiếm phải thực hiện nghĩa vụ bảo vệ an ninh mạng và dữ liệu, thiết lập và cải thiện hệ thống quản lý an ninh mạng và dữ liệu nội bộ, nâng cao mức độ bảo vệ an ninh mạng và dữ liệu của doanh nghiệp và đảm bảo an ninh mạng và dữ liệu của doanh nghiệp.
Điều 12 Các sở, ban, ngành có thẩm quyền về công nghiệp và công nghệ thông tin và tài nguyên thiên nhiên của chính quyền nhân dân từ cấp huyện trở lên phải tăng cường giám sát và kiểm tra việc thực hiện các chỉ tiêu kiểm soát tổng, điều tra và xử lý
các vi phạm theo quy định của pháp luật, thực hiện nghiêm ngặt các quy định pháp luật và hành chính cũng như các yêu cầu của Quốc vụ viện đối với các cuộc kiểm tra hành chính liên quan đến doanh nghiệp, và đảm bảo rằng việc giám sát và kiểm tra dựa trên pháp luật, được tiêu chuẩn hóa nghiêm ngặt, công bằng và dân sự, chính xác và hiệu quả.
Các sở, ban, ngành có thẩm quyền về công nghiệp và công nghệ thông tin và tài nguyên thiên nhiên của chính quyền nhân dân địa phương từ cấp huyện trở lên phải báo cáo kịp thời việc điều tra và xử lý các vi phạm cho các sở, ban, ngành có thẩm quyền về công nghiệp và công nghệ thông tin và tài nguyên thiên nhiên của chính quyền nhân dân cấp trên trực tiếp.
Các sở, ban, ngành có thẩm quyền về công nghiệp và công nghệ thông tin và tài nguyên thiên nhiên của chính quyền nhân dân tỉnh, trước cuối tháng 12 hàng năm, phải báo cáo việc giám sát và kiểm tra tổng thể các chỉ tiêu kiểm soát tổng trong phạm vi hành chính của họ cho Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin và Bộ Tài nguyên.
Điều 13 Nếu một doanh nghiệp sản xuất đất hiếm vi phạm các quy định của các Biện pháp này hoặc từ chối hoặc cản trở bộ phận giám sát và kiểm tra thực hiện nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật, các sở, ban, ngành có thẩm quyền về công nghiệp và công nghệ thông tin và tài nguyên thiên nhiên của chính quyền nhân dân từ cấp huyện trở lên, theo phân công nhiệm vụ của họ, sẽ ra lệnh cho doanh nghiệp đó sửa chữa và áp dụng các hình phạt theo Luật Tài nguyên Khoáng sản của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Quy định Quản lý Đất hiếm, và các luật và quy định hành chính có liên quan khác.
Điều 14 Nếu một doanh nghiệp sản xuất đất hiếm vi phạm các quy định của các Biện pháp này và phải chịu các hình phạt hành chính, các chỉ tiêu kiểm soát tổng của doanh nghiệp đó cho năm sau sẽ bị giảm.
Điều 15 Nếu nhân viên của các sở, ban, ngành có thẩm quyền về công nghiệp và công nghệ thông tin, tài nguyên thiên nhiên hoặc phát triển và cải cách lạm dụng quyền hạn của họ, bỏ bê nhiệm vụ của họ hoặc có hành vi sai trái vì lợi ích cá nhân trong việc quản lý kiểm soát tổng số lượng khai thác và tách chiết đất hiếm, họ sẽ phải chịu các chế tài theo quy định của pháp luật.
Điều 16 Các hành vi vi phạm các Biện pháp này cấu thành hành vi vi phạm quản lý an ninh công cộng sẽ phải chịu các hình phạt hành chính về an ninh công cộng theo quy định của pháp luật; nếu cấu thành tội phạm, trách nhiệm hình sự sẽ được truy cứu theo quy định của pháp luật.
Điều 17 Các Biện pháp này sẽ có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Thông báo về việc ban hành các Biện pháp tạm thời về quản lý kế hoạch sản xuất đất hiếm bắt buộc (MIIT Raw [2012] số 285) do Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin ban hành vào ngày 13 tháng 6 năm 2012, đồng thời bị bãi bỏ.
Xuất khẩu đất hiếm tăng 21%! Cuộc chiến toàn cầu đằng sau "vitamin công nghiệp" của Trung Quốc
Vào mùa hè năm 2025, một tin tức đã làm rung chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu: Xuất khẩu đất hiếm của Trung Quốc tăng vọt lên 5.994 tấn vào tháng 7, tăng 21% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt mức cao kỷ lục kể từ khi áp đặt các biện pháp kiểm soát xuất khẩu vào đầu năm. Đằng sau con số này là sự cạnh tranh công nghệ giữa Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản và châu Âu, sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng năng lượng mới và sự chuyển đổi chiến lược của Trung Quốc từ "nhà xuất khẩu tài nguyên" sang "nhà xuất khẩu công nghệ."
1. Ai đang mua đất hiếm của Trung Quốc? Nhật Bản dẫn đầu, Mỹ vội vã tích trữ
Nhật Bản là nước mua đất hiếm Trung Quốc hàng đầu không thể tranh cãi. Trong nửa đầu năm 2025, Nhật Bản chiếm 58,3% lượng nhập khẩu kim loại và hợp kim đất hiếm của Trung Quốc, có nghĩa là sáu trên mười tấn đất hiếm được vận chuyển đến Nhật Bản. Những vật liệu này được sử dụng để sản xuất động cơ cho xe năng lượng mới, khớp nối cho robot công nghiệp và cảm biến cao cấp, hỗ trợ sự mở rộng toàn cầu của các gã khổng lồ như Toyota và Fanuc.
Mỹ cũng là một nhân tố quan trọng. Mặc dù California có mỏ đất hiếm, nhưng 80% lượng tinh quặng đất hiếm của Mỹ được vận chuyển đến Trung Quốc để chế biến thành nam châm—tương tự như việc gửi lúa mì đến Trung Quốc để xay thành bột và sau đó vận chuyển trở lại để làm bánh mì. Vào tháng 6 năm 2025, xuất khẩu nam châm đất hiếm của Trung Quốc sang Mỹ đã tăng vọt 660% lên 353 tấn. Nguyên nhân trực tiếp là do việc giải phóng các đơn đặt hàng tồn đọng sau khi đạt được thỏa thuận thương mại Trung-Mỹ. Quan trọng hơn, "thời gian ân hạn" đối với thuế quan của Mỹ đối với Trung Quốc dự kiến sẽ hết hạn vào tháng 8, khiến các công ty hạ nguồn phải tích trữ sớm để tránh rủi ro. Các quốc gia như Hàn Quốc và Việt Nam cũng đẩy nhanh nhập khẩu, tạo ra một cơn sốt mua sắm trong khu vực.
Hà Lan và khu vực Đài Loan của Trung Quốc hoạt động giống như "trung gian". Hà Lan bán lại 26,4% hợp chất đất hiếm nhập khẩu cho các nhà sản xuất ô tô châu Âu, trong khi khu vực Đài Loan chế biến 16,6% đất hiếm thành các linh kiện điện tử chính xác, cuối cùng được đưa vào các gã khổng lồ công nghệ như Apple và Tesla. Chuỗi "Trung Quốc-Trung gian-Người dùng cuối" này biến đất hiếm trở thành "mạch máu vô hình" của chuỗi cung ứng toàn cầu.
2. Tại sao lại có sự tăng vọt đột ngột? Điều chỉnh chính sách + Nhu cầu tăng cao
Vào tháng 4 năm 2025, Trung Quốc đã áp đặt các biện pháp kiểm soát xuất khẩu đối với bảy loại đất hiếm trung và nặng, bao gồm samarium và terbium, khiến xuất khẩu nam châm sang Mỹ giảm 82% trong tháng 4-5. Tuy nhiên, chỉ hai tháng sau, xuất khẩu đã phục hồi mạnh mẽ. Sự thay đổi này được thúc đẩy bởi ba yếu tố:
Đầu tiên, nới lỏng chính sách có mục tiêu. Bộ Thương mại Trung Quốc đã đẩy nhanh quá trình phê duyệt vào tháng 6, ưu tiên cấp phép cho các nhà sản xuất ô tô châu Âu và các nhà máy chế biến của Việt Nam trong khi vẫn duy trì các hạn chế nghiêm ngặt đối với các công ty công nghiệp quân sự của Mỹ. Ví dụ, nhà sản xuất ô tô Đức Volkswagen đã nối lại sản xuất sau khi đảm bảo nguồn cung vật liệu từ tính đất hiếm, trong khi việc sản xuất máy bay chiến đấu F-35 của Mỹ phải đối mặt với rủi ro đình trệ do thiếu nam châm samarium-cobalt. "Chiến lược phân biệt" này làm giảm bớt áp lực quốc tế trong khi thắt chặt kiểm soát đối với các nguồn cung cấp quân sự quan trọng của Mỹ.
Thứ hai, nhu cầu cứng nhắc từ cuộc cách mạng năng lượng mới toàn cầu. Năm 2025, doanh số bán xe năng lượng mới toàn cầu vượt quá 30 triệu chiếc, mỗi chiếc cần 2-5 kg nam châm đất hiếm. Công suất lắp đặt điện gió tăng 40% so với cùng kỳ năm ngoái, với mỗi tuabin nam châm vĩnh cửu tiêu thụ một tấn oxit đất hiếm. Tám mươi phần trăm lượng đất hiếm nhẹ (praseodymium, neodymium) xuất khẩu của Trung Quốc chảy trực tiếp vào các lĩnh vực này. Như một công nhân từ Mỏ Bayan Obo ở Nội Mông đã nói, "Chúng tôi không đào đất; chúng tôi đang đào chìa khóa của tương lai."
Thứ ba, tích trữ địa chính trị. Với thời gian ân hạn thuế quan của Mỹ sắp kết thúc, các công ty đã vội vàng đặt hàng sớm để tránh các loại thuế bổ sung từ 10%-25%. Các công ty như LG Chem của Hàn Quốc và Sumitomo Electric của Nhật Bản thậm chí còn thuê máy bay để vận chuyển đất hiếm, lo sợ rằng họ sẽ lỡ "chuyến xe buýt cuối cùng". Việc mua hàng hoảng loạn này càng thúc đẩy khối lượng xuất khẩu ngắn hạn tăng lên.
3. Nghịch lý về khối lượng tăng và giá giảm: Trò chơi chiến lược của Trung Quốc
Mặc dù khối lượng xuất khẩu tăng vọt, giá đất hiếm lại giảm. Từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2025, giá trị xuất khẩu đất hiếm của Trung Quốc giảm 23,3% so với cùng kỳ năm ngoái, tạo ra một nghịch lý về "khối lượng tăng nhưng giá giảm". Điều này phản ánh ý định chiến lược của Trung Quốc:
Trong ngắn hạn, Trung Quốc đang đảm bảo sự ổn định của chuỗi cung ứng toàn cầu bằng cách nới lỏng xuất khẩu đất hiếm cho mục đích dân sự. Các nhà sản xuất ô tô châu Âu và các nhà máy chế biến của Việt Nam có thể duy trì sản xuất và tránh sa thải, gián tiếp làm giảm các chỉ trích thương mại đối với Trung Quốc. Trong khi đó, Trung Quốc tiếp tục kiểm soát chặt chẽ đất hiếm sử dụng trong quân sự (ví dụ: nam châm samarium-cobalt), đảm bảo các nguồn tài nguyên chiến lược không bị sử dụng chống lại lợi ích của mình.
Trong dài hạn, Trung Quốc đang chuyển đổi từ "bán quặng thô" sang "bán công nghệ". Các công ty như Northern Rare Earth không còn hài lòng với việc xuất khẩu nguyên liệu thô; thay vào đó, họ đang trực tiếp xuất khẩu các sản phẩm giá trị gia tăng như bột nam châm neodymium sang châu Âu và chất xúc tác đất hiếm sang Nhật Bản. Năm 2024, lợi nhuận của Northern Rare Earth từ xuất khẩu giá trị gia tăng cao đã tăng 40%, chứng minh rằng "xuất khẩu công nghệ" có lợi nhuận hơn "xuất khẩu tài nguyên". Như một báo cáo của chính phủ từ Baotou đã nêu, "Chúng tôi sẽ làm cho đất hiếm mang công nghệ Trung Quốc đến với thế giới."
4. Cuộc chiến đất hiếm còn lâu mới kết thúc: Trung Quốc nắm giữ những quân bài nào?
Mặc dù khối lượng xuất khẩu kỷ lục, sự kiểm soát của Trung Quốc đối với đất hiếm đang được tăng cường. Chín mươi phần trăm quá trình tinh chế đất hiếm toàn cầu dựa vào công nghệ Trung Quốc. Tình trạng bất ổn dân sự ở Myanmar làm giảm nguồn cung đất hiếm trung và nặng xuống 70%, và công ty MP Materials của Mỹ đã ngừng xuất khẩu tinh quặng đất hiếm sang Trung Quốc, khiến các công ty trong nước phụ thuộc nhiều hơn vào tài nguyên địa phương. Quan trọng hơn, Trung Quốc đang thiết lập một thị trường tương lai đất hiếm, sẵn sàng kiểm soát quyền định giá giống như cách họ làm với dầu mỏ.
Sự tăng vọt xuất khẩu đất hiếm năm 2025 về cơ bản là "tiến công bằng cách rút lui" chiến lược của Trung Quốc trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Khi các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản sử dụng đất hiếm của Trung Quốc để chế tạo động cơ và tên lửa của Mỹ dựa vào nam châm do Trung Quốc chế biến, kết quả của cuộc chiến thầm lặng này đã rõ ràng.
Bản chất của Lợi thế Cạnh tranh Quốc tế của Ngành Công nghiệp Đất hiếm là Khả năng Cạnh tranh về Chi phí
Đất hiếm, được biết đến là "vitamin công nghiệp" và "mẹ của vật liệu mới", nắm giữ vị thế chiến lược không thể thay thế trong các lĩnh vực như năng lượng mới, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường và quốc phòng. Mặc dù có 17 nguyên tố đất hiếm, nhưng nguyên tố đóng góp nhiều nhất cho ngành luyện kim và tách chiết là oxit praseodymium-neodymium (oxit PrNd), chiếm khoảng 80%, trong khi oxit terbium và oxit dysprosium cộng lại chiếm khoảng 10%. Bất kỳ doanh nghiệp luyện kim và tách chiết đất hiếm nào trên toàn cầu đều chủ yếu dựa vào oxit PrNd để tạo ra giá trị sản lượng và lợi nhuận.
Gần đây, thị trường đất hiếm lại trở nên biến động, có thể bị ảnh hưởng bởi những tin đồn lan truyền trên mạng về danh sách trắng cho các doanh nghiệp đất hiếm và việc xác minh hạn ngạch kiểm soát tổng thể: thứ Sáu tuần trước, giá oxit PrNd đã tăng 24.000 nhân dân tệ chỉ trong một ngày, và hôm nay nó lại tăng thêm 29.000 nhân dân tệ, tiến gần đến mức 600.000 nhân dân tệ/tấn. Thoạt nhìn, đây có vẻ là dấu hiệu của một thị trường nóng, nhưng đối với toàn bộ chuỗi ngành, nó đại diện cho cả cơ hội và rủi ro tiềm ẩn. Bài viết này cố gắng đưa ra một số quan điểm về vấn đề này; rất mong nhận được những sửa đổi cho bất kỳ sự không chính xác nào.
Một mặt, lịch sử đã chứng minh rằng giá cả quá cao sẽ trực tiếp kìm hãm nhu cầu hạ nguồn. Ví dụ điển hình nhất là ngành công nghiệp điện gió. Công nghệ truyền động trực tiếp bằng nam châm vĩnh cửu đất hiếm từng là một bước đột phá mang tính bước ngoặt đối với các nhà sản xuất tuabin gió trong nước. Tuy nhiên, khi giá đất hiếm tiếp tục tăng cao, các công ty hàng đầu như Goldwind đã phải điều chỉnh chiến lược của họ, chuyển sang công nghệ truyền động bán trực tiếp và hai chiều để giảm sự phụ thuộc vào đất hiếm. Mặt khác, giá đất hiếm quá cao tạo ra không gian thở và cơ hội phát triển cho ngành công nghiệp đất hiếm ở nước ngoài, từ đó làm tăng cường cạnh tranh quốc tế và hỗ trợ việc thiết lập chuỗi cung ứng đất hiếm ở nước ngoài.
Nếu chúng ta xem xét ngành công nghiệp đất hiếm trong bối cảnh lịch sử dài hơn, chúng ta thấy rằng: bên cạnh lợi thế về tài nguyên, lợi thế cạnh tranh quốc tế thực sự của ngành công nghiệp đất hiếm của Trung Quốc về cơ bản là khả năng cạnh tranh về chi phí đạt được sau những đột phá công nghệ. Đây vừa là lý do cốt lõi tại sao chúng ta có thể đánh bại đối thủ và thống trị thị trường quốc tế, vừa là chìa khóa để chúng ta có thể duy trì lợi thế này trong tương lai.
I. Lợi thế về chi phí đã thiết lập sự thống trị quốc tế của Trung Quốc trong lĩnh vực đất hiếm
Sự trỗi dậy của ngành công nghiệp đất hiếm của Trung Quốc thực sự bắt đầu bằng "chi phí."
(1) Sự rút lui của Hoa Kỳ: Đóng cửa ngành công nghiệp đất hiếm trong nước vào năm 2002
Vào những năm 1980, khi ngành công nghiệp đất hiếm của Trung Quốc mới bắt đầu, Hoa Kỳ vẫn là bá chủ tuyệt đối của ngành công nghiệp đất hiếm toàn cầu. Vào thời điểm đó, Hoa Kỳ sở hữu tài nguyên đất hiếm đẳng cấp thế giới, mỏ Mountain Pass ở California, và làm chủ toàn bộ chuỗi ngành từ khai thác và tách chiết đến ứng dụng, từng chiếm hơn 65% nguồn cung đất hiếm toàn cầu. Tình hình này đã thay đổi hoàn toàn với sự phát triển của khoa học và công nghệ đất hiếm ở Trung Quốc. Dưới sự lãnh đạo của những nhân vật đáng kính trong lĩnh vực đất hiếm như các học giả Xu Guangxian, Zhang Guocheng và Yu Yongfu, Trung Quốc đã liên tiếp đột phá các công nghệ then chốt trong lĩnh vực tuyển khoáng và tách chiết đất hiếm. Những đổi mới này đã được ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn sản xuất, phá vỡ thành công sự độc quyền lâu dài của Hoa Kỳ và Pháp trong công nghệ luyện kim và tách chiết đất hiếm. Điều này không chỉ cải thiện đáng kể chất lượng sản phẩm đất hiếm của Trung Quốc mà còn làm tăng đáng kể hiệu quả sản xuất. Kể từ những năm 1990, các doanh nghiệp Trung Quốc, tận dụng lợi thế tài nguyên độc đáo, chi phí lao động cạnh tranh, các chính sách môi trường tương đối thông thoáng và các công nghệ luyện kim và tách chiết được tối ưu hóa liên tục, đã liên tục giảm chi phí sản xuất. Loạt lợi thế này đã khiến các công ty Mỹ khó cạnh tranh, cuối cùng nhường quyền thống trị ngành công nghiệp đất hiếm toàn cầu. Đến năm 2002, Hoa Kỳ cuối cùng đã đóng cửa mỏ Mountain Pass và rút khỏi phân khúc luyện kim và tách chiết đất hiếm. Sự suy thoái của ngành công nghiệp đất hiếm của Hoa Kỳ không phải do cạn kiệt tài nguyên mà là do thua Trung Quốc về lợi thế chi phí.
(2) Những khó khăn của Lynas của Úc: Gần phá sản vào năm 2016
Sức mạnh của lợi thế chi phí của Trung Quốc cũng có thể thấy trong kinh nghiệm của Lynas của Úc. Lynas là công ty đất hiếm lớn nhất bên ngoài Trung Quốc, nhưng nhà máy tách chiết của họ ở Malaysia đã bị ảnh hưởng bởi những tranh cãi về môi trường và áp lực tài chính to lớn. Đến năm 2016, Lynas rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, gánh nặng nợ nần, thậm chí công khai tìm người mua.
Tuy nhiên, chính vào năm 2017, Trung Quốc đã khởi xướng các cuộc trấn áp trong nước đối với các hoạt động bất hợp pháp, tích trữ và xác minh hạn ngạch kiểm soát tổng thể trong lĩnh vực đất hiếm, dẫn đến việc tăng cường kiểm soát nguồn cung và đẩy giá oxit PrNd lên 520.000 nhân dân tệ/tấn. Sự tăng giá nhanh chóng này, đến lượt nó, đã cho Lynas một khoảng thời gian thở tạm thời, cho phép công ty duy trì hoạt động. Nếu không có sự tăng giá này, Lynas có thể đã biến mất khỏi bức tranh đất hiếm toàn cầu. Với những cú nhảy giá gần đây, có cảm giác như lịch sử đang lặp lại.
Sự thật chứng minh rằng lợi thế chi phí của Trung Quốc không phải là vĩnh cửu; khi giá trở nên quá cao, nó có thể vô tình hỗ trợ các đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài. Ngày nay, Lynas đã trở thành đối thủ cạnh tranh lớn nhất ở nước ngoài của ngành công nghiệp đất hiếm của Trung Quốc.
II. "Khoảng cách kéo cắt" giữa giá đất hiếm và chuỗi ngành
Ngành công nghiệp đất hiếm là một chuỗi ngành điển hình "gắn kết chặt chẽ giữa thượng nguồn và hạ nguồn". Giá cả thượng nguồn quá cao thường dẫn đến sự cản trở đổi mới hạ nguồn và thậm chí là sự thay đổi trong các tuyến công nghệ.
Lấy điện gió làm ví dụ, công nghệ truyền động trực tiếp bằng nam châm vĩnh cửu đất hiếm đã chiếm ưu thế từ năm 2008 đến năm 2015, được coi là một hướng quan trọng để cải thiện độ tin cậy và hiệu quả của tuabin. Tuy nhiên, nếu giá đất hiếm vẫn ở mức cao trong một thời gian dài, các nhà sản xuất tuabin buộc phải chuyển sang các giải pháp thay thế. Hiện nay, Goldwind đã tăng đáng kể tỷ lệ sản phẩm truyền động hai chiều và bán trực tiếp, cho thấy rằng giá cả thượng nguồn ngoài tầm kiểm soát đang buộc các nhà sản xuất hạ nguồn phải từ bỏ tuyến nam châm vĩnh cửu đất hiếm.
Điều này không chỉ ảnh hưởng đến việc hấp thụ nhu cầu trong nước mà còn ảnh hưởng đến sự chấp nhận của thị trường toàn cầu đối với nam châm vĩnh cửu đất hiếm. Nói cách khác, sự mất cân bằng về giá đất hiếm không chỉ gây hại cho các doanh nghiệp hạ nguồn mà còn làm lung lay khả năng cạnh tranh quốc tế tổng thể của chuỗi ngành công nghiệp đất hiếm của Trung Quốc.
III. Bức tranh cạnh tranh quốc tế: Lợi thế chi phí và các cuộc chơi chính sách
(1) Phát triển dần dần các nguồn tài nguyên ở nước ngoài
Trong thập kỷ qua, Hoa Kỳ, Úc, Canada, Việt Nam, Greenland và các nước khác đã tích cực khởi động lại ngành công nghiệp đất hiếm của họ. Đặc biệt, mỏ Mountain Pass do Hoa Kỳ dẫn đầu đã khởi động lại vào năm 2017 với kế hoạch xây dựng một chuỗi cung ứng độc lập với Trung Quốc.
Sự tiến bộ của các dự án này thường dựa vào hai khía cạnh: thứ nhất, giá đất hiếm vẫn ở mức tương đối cao, đảm bảo khả năng sinh lời; và thứ hai, trợ cấp của chính phủ và hỗ trợ chính sách. Điều này cho thấy rằng miễn là giá đủ cao, ngành công nghiệp đất hiếm ở nước ngoài có thể tồn tại và thậm chí phát triển.
(2) Lợi thế chi phí của Trung Quốc vẫn còn nhưng đang thu hẹp
Ngay cả ngày nay, Trung Quốc vẫn chiếm 70-80% công suất luyện kim và tách chiết đất hiếm toàn cầu và sở hữu một chuỗi ngành ứng dụng hoàn chỉnh. Tuy nhiên, với các yêu cầu về môi trường ngày càng tăng, chi phí lao động tăng cao và thị trường vốn quốc tế hóa hơn, lợi thế chi phí của chúng ta đang thu hẹp.
Trong khi đó, thị trường quốc tế đang chủ động hỗ trợ các ngành công nghiệp đất hiếm không phải của Trung Quốc. Ví dụ, Hoa Kỳ và Úc đã ký các thỏa thuận hợp tác chiến lược, và Nhật Bản và Hàn Quốc đang thiết lập mối quan hệ cung ứng lâu dài với Lynas. Xu hướng "phi Trung Quốc hóa" chuỗi cung ứng này về bản chất là do lo ngại rằng Trung Quốc có thể sử dụng giá đất hiếm hoặc nguồn cung làm đòn bẩy.
IV. Chìa khóa để duy trì lợi thế cạnh tranh của ngành công nghiệp đất hiếm của Trung Quốc
Nếu chiến thắng của ngành công nghiệp đất hiếm của Trung Quốc trong 30 năm qua dựa vào "khả năng cạnh tranh về chi phí", thì để duy trì lợi thế này trong tương lai, nó phải "xây dựng một lợi thế hiệp đồng trên toàn bộ chuỗi ngành dựa trên chi phí."
(1) Tuân thủ sự cân bằng cung cầu để ngăn chặn biến động giá quá mức
Giá quá cao vừa kìm hãm nhu cầu hạ nguồn vừa khuyến khích cạnh tranh ở nước ngoài. Các chính sách công nghiệp tôn trọng luật thị trường nên được xây dựng để giúp giữ giá thị trường trong một phạm vi hợp lý, tránh lặp lại kịch bản năm 2011 khi giá tăng vọt rồi sụt giảm.
(2) Tiếp tục giảm chi phí thông qua đổi mới công nghệ
Lợi thế chi phí trong quá khứ đến từ sự khác biệt về chi phí lao động và môi trường. Việc thực hiện "Tiêu chuẩn xả thải chất gây ô nhiễm công nghiệp đất hiếm" vào năm 2011 đã thúc đẩy một số lượng lớn các công nghệ môi trường xanh. Trong những năm gần đây, các tiêu chuẩn môi trường trong toàn ngành đã được cải thiện chung, và tương ứng, chi phí môi trường cũng tăng lên. Trong tương lai, chúng ta phải dựa vào tiến bộ công nghệ để duy trì lợi thế của mình. Ví dụ:
Cải thiện hiệu quả luyện kim và tách chiết, giảm tiêu thụ năng lượng và sử dụng thuốc thử.
Thúc đẩy luyện kim xanh, giảm chi phí quản lý môi trường.
Thúc đẩy bảo tồn vật liệu và tái chế trong các phân khúc ứng dụng như vật liệu từ tính và hợp kim.
(3) Tăng cường sự phối hợp thượng nguồn-hạ nguồn để hình thành lợi thế chu kỳ lớn trong nước
Giá trị của đất hiếm không chỉ nằm ở tài nguyên khoáng sản mà còn ở các ứng dụng cuối cùng. Nếu thượng nguồn và hạ nguồn hình thành sự tương tác tích cực, ví dụ thông qua các hợp đồng cung ứng dài hạn, đầu tư quỹ công nghiệp phối hợp, v.v., nó có thể tránh được "khoảng cách kéo cắt" – nơi tối đa hóa lợi nhuận ở khâu tài nguyên làm thu hẹp không gian thị trường của khâu ứng dụng – và cùng nhau nâng cao khả năng cạnh tranh.
(4) Tạo ra một bố cục công nghiệp quốc tế hóa
Đối mặt với "phi Trung Quốc hóa" quốc tế, chúng ta cần chủ động vươn ra toàn cầu. Thông qua đầu tư, liên doanh và sáp nhập, tham gia vào phát triển tài nguyên đất hiếm ở nước ngoài và xây dựng chuỗi ngành, biến đối thủ cạnh tranh thành đối tác và kết hợp đất hiếm ở nước ngoài vào bố cục toàn cầu của chúng ta.
V. Kết luận: Lợi thế chi phí là nền tảng, đổi mới hiệp đồng là tương lai
Nhìn lại 30 năm qua, lý do chính khiến ngành công nghiệp đất hiếm của Trung Quốc chuyển đổi từ người đi sau thành người dẫn đầu toàn cầu nằm ở lợi thế chi phí đạt được sau khi giải quyết các vấn đề công nghệ then chốt. Việc Hoa Kỳ rút lui vào năm 2002 và cuộc khủng hoảng tài chính của Lynas vào năm 2016 là bằng chứng rõ ràng về lợi thế chi phí của Trung Quốc.
Nhưng ngày nay, tình hình đã thay đổi một cách tinh tế. Giá quá cao làm nản lòng các ngành công nghiệp hạ nguồn trong nước và cũng tạo ra không gian sống cho các đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài. Nếu chúng ta không thể xây dựng một lợi thế hiệp đồng trên toàn bộ chuỗi ngành trên cơ sở lợi thế chi phí, chúng ta có thể trở nên bị động trong cạnh tranh quốc tế trong tương lai.
Cạnh tranh quốc tế trong ngành công nghiệp đất hiếm về bản chất là về chi phí, nhưng thậm chí còn hơn thế về hệ thống. Chỉ bằng cách đảm bảo lợi thế chi phí trong khi đạt được tiến bộ công nghệ, sự phối hợp thượng nguồn-hạ nguồn và bố cục toàn cầu, ngành công nghiệp đất hiếm của Trung Quốc mới có thể thực sự nắm bắt được sáng kiến cho tương lai.
Viết vào cuối: Giá cả được quyết định bởi cung và cầu. Sự tăng giá của oxit PrNd cho thấy nguồn cung đang thắt chặt. Hiện tại, đối với các doanh nghiệp sản xuất, tình thế khó xử tồi tệ nhất là giá đã tăng, nhưng họ không có hàng trong tay! Trung Quốc sở hữu trữ lượng đất hiếm đã được chứng minh lớn nhất thế giới và công suất luyện kim và tách chiết đất hiếm lớn nhất toàn cầu. Tại sao đột nhiên lại có tình trạng thiếu cung? Có lẽ mọi người đều hiểu rõ lý do. Hãy tưởng tượng nếu quặng nhập khẩu cũng được đưa vào quản lý kế hoạch kiểm soát tổng thể trong tương lai, thì thị trường có khả năng sẽ mất đi tính đàn hồi tự điều chỉnh. Khi nhu cầu tăng, giá cả chắc chắn sẽ tăng.Theo đuổi tối đa hóa lợi nhuận là bản chất bẩm sinh của các doanh nghiệp, động lực nội tại cho sự tồn tại và phát triển của họ. Từ góc độ chiến lược quốc gia, giá trị của đất hiếm không nằm ở việc bán sản phẩm đất hiếm với giá cao như thế nào, mà là ở việc chúng được sử dụng tốt như thế nào. Ước tính sơ bộ về giá trị sản lượng của chuỗi ngành công nghiệp đất hiếm vào năm 2024, từ mỏ đến các vật liệu chức năng như nam châm vĩnh cửu đất hiếm, là khoảng 200 tỷ nhân dân tệ, ít hơn giá trị sản lượng của hai công ty thép, Tập đoàn Baotou Steel và Tập đoàn Ansteel. Tuy nhiên, giá trị sản lượng của các ngành công nghiệp cuối cùng phụ thuộc không thể thiếu vào đất hiếm, chẳng hạn như máy tính, truyền thông và các sản phẩm điện tử tiêu dùng (3C), xe năng lượng mới, phát điện gió, thang máy tiết kiệm năng lượng, robot công nghiệp, mạch tích hợp quy mô lớn, máy bay không người lái, v.v., vượt quá 20 nghìn tỷ nhân dân tệ. Do đó, việc xây dựng các chính sách vĩ mô cho ngành công nghiệp đất hiếm phải tập trung vào các tác động hiệp đồng của chuỗi ngành, thay vì những được và mất của biến động giá đất hiếm.
Tuyên bố từ chối trách nhiệm: Nội dung được mô tả trong bài viết này chỉ thể hiện quan điểm và phân tích cá nhân và không đại diện cho vị thế của bất kỳ tổ chức chính thức hoặc doanh nghiệp cụ thể nào. Tất cả dữ liệu và thông tin đều đến từ các kênh công khai và mọi nỗ lực đã được thực hiện để đảm bảo tính chính xác và kịp thời của chúng. Tuy nhiên, do những thay đổi nhanh chóng của thị trường và cập nhật thông tin, nội dung của bài viết này có thể chứa những sai lệch. Việc thảo luận về biến động giá thị trường đất hiếm và các đề xuất chính sách trong bài viết này chỉ nhằm mục đích tham khảo và không cấu thành lời khuyên về đầu tư, ra quyết định hoặc hành động thị trường. Độc giả nên tự chịu rủi ro khi đưa ra bất kỳ quyết định nào dựa trên nội dung của bài viết này và nên tham khảo thêm các chuyên gia có liên quan.
Vui lòng cung cấp những lời chỉ trích và sửa đổi cho bất kỳ điểm không phù hợp nào trong phần bình luận.
McKinsey: Nhu cầu đất hiếm trong nam châm sẽ tăng gấp ba
Theo Mining.com, một báo cáo của McKinsey & Company dự đoán rằng thị trường nam châm vĩnh cửu đất hiếm sẽ tăng gấp ba lần vào năm 2035 khi quá trình chuyển đổi năng lượng tăng tốc, đặt ra những thách thức lớn hơn cho nguồn cung toàn cầu.
Nam châm vĩnh cửu đất hiếm hiện là loại nam châm mạnh nhất hiện có để sử dụng trong động cơ và máy phát điện tuabin gió. Những nam châm này thường yêu cầu bốn nguyên tố đất hiếm làm nguyên liệu thô: neodymium (Nd), praseodymium (Pr), dysprosium (Dy) và terbium (Tb). Hai nguyên tố đầu tiên là thành phần chính, trong khi hai nguyên tố sau là chất phụ gia được sử dụng trong các ứng dụng quan trọng hơn để tăng cường hiệu suất.
McKinsey ước tính rằng mặc dù chúng chỉ chiếm 30% tổng sản lượng đất hiếm, nhưng đất hiếm được sử dụng trong nam châm vĩnh cửu chiếm 80% tổng giá trị của thị trường đất hiếm.
Do tầm quan trọng của nó trong các công nghệ năng lượng sạch, lượng đất hiếm toàn cầu được sử dụng trong nam châm sẽ tăng từ 59.000 tấn vào năm 2022 lên 176.000 tấn vào năm 2035. McKinsey cho biết thêm rằng động lực chính của sự tăng trưởng này là sự gia tăng mạnh mẽ về tỷ lệ thâm nhập của xe điện, vượt xa việc thay thế nam châm cuộn dây đồng bằng đất hiếm. Một yếu tố khác là sự phát triển nhanh chóng của năng lượng tái tạo.
Đồng thời, nguồn cung có thể giảm tới 30%. Bất ổn địa chính trị có thể làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu hụt nguồn cung đất hiếm.
McKinsey cảnh báo rằng mặc dù các quốc gia trên thế giới đang nỗ lực phát triển chuỗi cung ứng đất hiếm của riêng mình, nhưng sẽ rất khó để đa dạng hóa chuỗi cung ứng trong 5 đến 10 năm tới. Thời gian xây dựng các cơ sở khai thác và chế biến mới kéo dài, các rào cản về môi trường và chi phí cao khiến các nguồn tài nguyên thứ cấp như tái chế ngày càng trở nên quan trọng.
Hiện tại, hơn 80% chất thải đất hiếm đến từ các bộ phận trong thiết bị điện tử tiêu dùng, xe điện hoặc xe động cơ đốt trong, tất cả đều sử dụng nam châm nhỏ hơn cho động cơ, phanh và cảm biến.
Tuy nhiên, McKinsey tin rằng đến năm 2050, việc sử dụng ngày càng tăng của các nguyên tố đất hiếm từ tính trong xe điện và tuabin gió có thể dẫn đến sự mở rộng của các nguồn chất thải. Hệ thống truyền động xe điện thuần túy, động cơ công nghiệp và tuabin gió có thể tạo ra lượng chất thải đất hiếm tương tự, do đó cung cấp một nguồn nam châm mới và lớn hơn, chứa tỷ lệ cao hơn các nguyên tố đất hiếm nặng có giá trị.
McKinsey ước tính rằng có khoảng 40.000 tấn chất thải đất hiếm trước khi tiêu dùng, đến từ các giai đoạn thiết kế và sản xuất nam châm, và khoảng 41.000 tấn chất thải đất hiếm sau khi tiêu dùng, đến từ các sản phẩm cuối vòng đời khác nhau.
McKinsey tin rằng so với sự phân bố tương đối tập trung của chất thải đất hiếm trước khi tiêu dùng, chất thải đất hiếm sau khi tiêu dùng phân tán hơn về mặt địa lý nhưng khó tái chế hơn.
McKinsey tuyên bố rằng việc tái chế các nguyên tố đất hiếm sau khi tiêu dùng sẽ yêu cầu sự tách biệt chuyên biệt của nam châm để xử lý thêm, một thực tế hiện không được áp dụng trong chuỗi giá trị tái chế hiện có, vốn tập trung vào các vật liệu có giá trị cao hoặc khối lượng lớn như vàng và đồng hoặc nhôm và thép.
Nghiên cứu từ các think tank nước ngoài: Tranh chấp đất hiếm giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ phát triển như thế nào?
Kể từ khi Bộ Thương mại Trung Quốc, phối hợp với Tổng cục Hải quan, ban hành "Quyết định về kiểm soát xuất khẩu một số mặt hàng đất hiếm trung và nặng", chuỗi cung ứng toàn cầu đã bị chao đảo. Trung Quốc và Mỹ liên tục tham gia vào cuộc chơi đất hiếm. Mỹ thậm chí còn cố gắng sử dụng "dỡ bỏ lệnh cấm thương mại" đối với ethylene, EDA và các bộ phận động cơ phản lực máy bay, v.v., để khiến Trung Quốc nới lỏng về đất hiếm. Đồng thời, để giảm sự phụ thuộc vào thị trường đất hiếm Trung Quốc, chính phủ Mỹ đã bắt đầu thúc đẩy sự phát triển trong nước của chuỗi ngành công nghiệp đất hiếm, được bổ sung bằng sự phát triển chung với nhiều quốc gia và khu vực để tăng cường sự đa dạng của nguồn cung đất hiếm.
Những thay đổi này ảnh hưởng như thế nào đến sự cạnh tranh đất hiếm giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ? Các quốc gia và khu vực khác sẽ phản ứng như thế nào trước các biện pháp kiểm soát đất hiếm của Trung Quốc? Bài viết này chọn phân tích từ nhiều viện nghiên cứu uy tín để khám phá tình hình hiện tại và xu hướng phát triển của ngành công nghiệp đất hiếm toàn cầu.
Ngoài thỏa thuận, những bất ổn vẫn còn
Vào Ngày 11 tháng 6 năm 2025, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế tại Hoa Kỳ đã công bố "Trump Đạt được Thỏa thuận Khôi phục Kênh Cung ứng Đất hiếm". Bài viết nêu rõ rằng thỏa thuận đàm phán kinh tế và thương mại Trung-Mỹ bao gồm Việc Trung Quốc nối lại xuất khẩu đất hiếm và nam châm sang Hoa Kỳ. Sự kiện này nhấn mạnh tầm quan trọng của nguyên liệu đất hiếm đối với nền kinh tế Mỹ và vị thế thống trị của Trung Quốc trong chuỗi cung ứng khoáng sản chủ chốt toàn cầu.
Vào tháng 4 năm 2025, Trung Quốc đã áp đặt các hạn chế xuất khẩu đối với bảy nguyên tố đất hiếm, tác động trực tiếp đến chuỗi cung ứng toàn cầu. Cuộc khủng hoảng này đã phơi bày mức độ phụ thuộc cao của các nước phương Tây vào Trung Quốc trong các lĩnh vực khoáng sản chủ chốt. Mặc dù một thỏa thuận ngừng áp thuế trong 90 ngày đã đạt được giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ vào tháng 5, nhưng sự chậm trễ trong việc phê duyệt hành chính đã dẫn đến sự phục hồi chậm chạp trong nguồn cung thực tế. Các nhà sản xuất ô tô Mỹ đặc biệt bị ảnh hưởng - nhà máy Ford Chicago đã phải đóng cửa trong một tuần và nhiều nhà cung cấp ô tô châu Âu buộc phải dừng sản xuất. Suzuki của Nhật Bản thậm chí còn tạm dừng sản xuất mẫu Swift.
Trong khuôn khổ mới đạt được trong các cuộc đàm phán ở London vào tháng 6, mặc dù Trung Quốc cam kết nối lại một số nguồn cung đất hiếm, nhưng đây chỉ là một biện pháp tạm thời. Về lâu dài, Mỹ nên đẩy nhanh các nỗ lực để giảm sự phụ thuộc vào đất hiếm nặng của Trung Quốc. Dữ liệu cho thấy rằng năng lực sản xuất nam châm neodymium sắt boron của MP Materials ở Mỹ vào năm 2025 chỉ là 1.000 tấn, ít hơn 1% so với sản lượng của Trung Quốc vào năm 2018. Điều này nhấn mạnh rằng quá trình đạt được quyền tự chủ chuỗi cung ứng là rất khó khăn.
Chiến lược của Mỹ để đột phá tập trung vào hai hướng: Một là đạt được sự đa dạng hóa chuỗi cung ứng đất hiếm thông qua Úc. Sản lượng oxit đất hiếm của quốc gia này dự kiến sẽ tăng gấp ba lần trong vòng ba năm. Sau khi Arafura Rare Earths Limited bắt đầu sản xuất vào năm tới, dự kiến sẽ chiếm 4% nhu cầu toàn cầu về neodymium và praseodymium vào năm 2032. Hướng còn lại là trong "Chiến lược Công nghiệp Quốc phòng", Mỹ tuyên bố rằng họ đặt mục tiêu thành lập một chuỗi công nghiệp đầy đủ "mỏ-nam châm" vào năm 2027.Động lực cung và cầu trên thị trường đất hiếm gắn liền với địa chính trị.
Vào ngày 31 tháng 5 năm 2025, Cơ quan Năng lượng Quốc tế đã công bố "Triển vọng Khoáng sản Quan trọng Toàn cầu năm 2025" mới nhất. Báo cáo chỉ ra rằng vào năm 2024, nhu cầu toàn cầu về các khoáng sản năng lượng chính đã chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ. Việc liên tục mở rộng năng lượng pin và cơ sở hạ tầng năng lượng mới đã dẫn đến sự gia tăng gần 30% nhu cầu lithium, trong khi niken, coban, than chì và đất hiếm duy trì tốc độ tăng trưởng cao từ 6% đến 8%.
Báo cáo chỉ ra rằng tình trạng thiếu hụt tiềm năng của đồng và lithium là quyết định nhất. Mặc dù nguồn cung tổng thể các khoáng sản năng lượng có vẻ dồi dào trong ngắn hạn, nhưng cả đồng và lithium sẽ phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng trong trung và dài hạn: đến năm 2035, tình trạng thiếu hụt đồng chính có thể đạt 30% và tình trạng thiếu hụt lithium cũng có thể lên tới gần 40%. Một khi tình trạng thiếu hụt trở thành hiện thực, nó sẽ làm tăng chi phí của các sản phẩm hạ nguồn, buộc các dự án năng lượng mới và công nghiệp phải hoãn hoặc giảm quy mô, từ đó làm chậm quá trình toàn cầu đạt được các mục tiêu ròng bằng không.
Báo cáo nêu rõ rằng các nguồn tài nguyên khoáng sản chiến lược làm nền tảng cho các ngành công nghiệp công nghệ cao và năng lượng mới đang phải đối mặt với nhiều rủi ro thị trường. Thứ nhất, do quy mô thị trường nhỏ và tính minh bạch hạn chế, thị trường khoáng sản chủ chốt dễ bị biến động giá cả. Theo thống kê, trong số 20 khoáng sản chiến lược, 75% có tỷ lệ biến động giá cao hơn dầu thô và một nửa vượt quá khí đốt tự nhiên. Thứ hai, các hạn chế thương mại ảnh hưởng đến thị trường khoáng sản chủ chốt. Một loạt các chính sách kiểm soát xuất khẩu gần đây đã làm tăng thêm sự bất ổn của thị trường. Hơn nữa, nguồn cung tập trung cao (đặc biệt là trong các giai đoạn tinh chế và chế biến) làm tăng thêm rủi ro: Trung Quốc thống trị năng lực tinh chế của 19 trong số 20 khoáng sản chiến lược, chiếm thị phần trung bình khoảng 70%. Ngoài ra, các khoáng sản như tantali, titan và vanadi hoặc thiếu các lựa chọn thay thế khả thi hoặc yêu cầu thỏa hiệp giữa chi phí và hiệu suất.
Báo cáo cũng đề cập rằng mặc dù đổi mới công nghệ (chẳng hạn như thăm dò AI, DLE và tái sử dụng đuôi quặng) có thể nâng cao hiệu quả, nhưng rất khó để giảm thiểu rủi ro địa chính trị; tương tự, hỗ trợ chính sách (ưu đãi thuế, chênh lệch giá, thỏa thuận mua bán dài hạn) sẽ không tạo thành động lực bền vững nếu không có sự sẵn có của các công nghệ thực tế. Do đó, cần có sự hợp tác "công nghệ và chính sách" để phá vỡ sự phụ thuộc vào một phương pháp duy nhất. Bằng cách cung cấp bảo lãnh cho vay, dự trữ chiến lược và đơn giản hóa quy trình phê duyệt từ chính phủ và các tổ chức quốc tế, đồng thời cung cấp hỗ trợ có mục tiêu cho các dự án công nghệ hiệu quả, có thể vừa giới thiệu các thực thể sản xuất mới vừa đảm bảo rằng các thực thể này hoạt động ổn định theo cả biện pháp bảo vệ chính sách và thị trường.
Hoa Kỳ hiện thiếu một chuỗi cung ứng thay thế phù hợp.
Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế của Hoa Kỳ đã công bố "Hậu quả của các hạn chế mới của Trung Quốc đối với xuất khẩu đất hiếm" vào ngày 14 tháng 4, tuyên bố rằng việc Trung Quốc hạn chế xuất khẩu bảy loại nguyên tố đất hiếm đã gây ra một sự náo động lớn trên thị trường quốc tế, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp liên quan của Hoa Kỳ.
Lĩnh vực công nghệ quốc phòng của Mỹ là lĩnh vực đầu tiên bị ảnh hưởng. Từ góc độ mua sắm, các hạn chế đã mang lại ba tác động. Thứ nhất, trong quá trình thiết lập hệ thống cấp phép, các hoạt động xuất khẩu đã bị tạm dừng, làm gián đoạn nhịp điệu mua sắm ổn định của các doanh nghiệp Mỹ. Thứ hai, 16 doanh nghiệp quốc phòng và hàng không vũ trụ của Mỹ đã được đưa vào danh sách kiểm soát xuất khẩu, làm tăng đáng kể rủi ro gián đoạn chuỗi cung ứng. Thứ ba, hệ thống cấp phép động đã thúc đẩy các quốc gia tìm kiếm sự hợp tác với Trung Quốc. Nếu các doanh nghiệp Mỹ không thích ứng kịp thời, họ có thể mất đi lợi thế trong cạnh tranh quốc tế.
Hoa Kỳ cũng cực kỳ dễ bị tổn thương trong chuỗi cung ứng đất hiếm. Trung Quốc từ lâu đã nắm giữ 99% thị phần toàn cầu về chế biến đất hiếm. Nhà máy lọc dầu duy nhất của Việt Nam có thể cung cấp một lượng nhỏ sản lượng đã ngừng sản xuất trong một năm do tranh chấp thuế. Điều này khiến Hoa Kỳ phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc về nguồn cung đất hiếm. Hạn chế này đối với đất hiếm nặng nhắm trực tiếp vào cốt lõi của chuỗi cung ứng của Mỹ. Hiện tại, Hoa Kỳ không có khả năng tách đất hiếm. Đến cuối năm 2025, MP Materials, được tài trợ bởi Lầu Năm Góc, chỉ có thể sản xuất 1.000 tấn nam châm NdFeB hàng năm, trong khi Trung Quốc đã có thể sản xuất 138.000 tấn nam châm NdFeB hàng năm vào năm 2018; vào năm 2024, MP Materials đã công bố sản lượng 1300 tấn oxit NdPr và Trung Quốc đã sản xuất khoảng 300.000 tấn nam châm NdFeB vào năm 2018. Mặc dù Hoa Kỳ có các kế hoạch phát triển liên quan, nhưng chúng còn xa mục tiêu. Mặc dù Bộ Quốc phòng đã đầu tư hơn 439 triệu đô la Mỹ (tương đương khoảng 3,18 tỷ nhân dân tệ) để xây dựng chuỗi cung ứng trong nước, nhưng các cơ sở liên quan sẽ không thể đáp ứng nhu cầu quốc phòng cho đến năm 2027.
Các nguyên tố đất hiếm có ý nghĩa to lớn đối với an ninh quốc gia của Hoa Kỳ. Trong các công nghệ quốc phòng, nhiều thiết bị chủ chốt như máy bay chiến đấu F-35, tàu ngầm lớp Virginia và lớp Columbia, và tên lửa "Tomahawk" đều sử dụng rộng rãi các nguyên tố đất hiếm. Một máy bay chiến đấu F-35 chứa hơn 900 pound đất hiếm và một tàu ngầm lớp Virginia cần khoảng 9.200 pound. Hoa Kỳ đã có một bất lợi trong việc sản xuất các công nghệ quốc phòng và nếu Trung Quốc hạn chế nhập khẩu các khoáng sản chủ chốt, nó sẽ nhanh chóng nới rộng khoảng cách năng lực quân sự giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Khi nói đến việc tìm kiếm các nhà cung cấp thay thế để hợp tác quốc tế, mặc dù nhiều quốc gia có kế hoạch và đầu tư để phát triển tài nguyên đất hiếm, nhưng hiện tại Trung Quốc vẫn giữ vị thế thống trị trong quá trình tinh chế đất hiếm nặng. Mặc dù Úc đã và đang nỗ lực phát triển mỏ Browns Range để biến nó thành một cơ sở sản xuất dysprosium, nhưng nó vẫn cần rất nhiều công việc về mặt xây dựng năng lực chế biến và tinh chế, và vẫn sẽ phụ thuộc vào công nghệ tinh chế oxit của Trung Quốc ít nhất cho đến năm 2026. Bài viết chỉ ra rằng Hoa Kỳ cần tăng cường hợp tác với các quốc gia khác
và đẩy nhanh việc khắc phục khoảng cách kiến thức kỹ thuật trong việc tách và chế biến đất hiếm.Châu Phi có thể trở thành chiến trường chính tiếp theo cho sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ
Báo cáo "Trung Quốc và Mỹ đầu tư vào khoáng sản chủ chốt như thế nào" do Trung tâm Stimson công bố chỉ ra rằng trong tình hình hiện tại khi nhu cầu toàn cầu về khoáng sản chủ chốt đang tăng vọt và tình hình địa chính trị phức tạp và dễ biến động, sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ trong lĩnh vực khoáng sản chủ chốt ở châu Phi đã trở nên ngày càng nổi bật.
Từ góc độ quy mô đầu tư, vào năm 2023, thông qua "Sáng kiến Vành đai và Con đường", tổng sự tham gia kinh tế của Trung Quốc vào châu Phi đã đạt 21,7 tỷ đô la Mỹ (tương đương khoảng 155,689 tỷ nhân dân tệ), trong đó đầu tư vào các dự án khoáng sản chủ chốt là khoảng 8 đến 10 tỷ đô la Mỹ; trong khi Hoa Kỳ đầu tư 7,4 tỷ đô la Mỹ (tương đương khoảng 53,025 tỷ nhân dân tệ) vào châu Phi trong năm đó, với đầu tư khoáng sản chủ chốt chỉ khoảng 300 triệu đô la Mỹ. Đầu tư của Trung Quốc vào khoáng sản chủ chốt ở châu Phi lớn hơn nhiều so với Hoa Kỳ.
Mục tiêu chuyển đổi năng lượng xanh đã thúc đẩy nhu cầu về khoáng sản chủ chốt của Trung Quốc. Là một bên ký kết các Mục tiêu Phát triển Bền vững năm 2030, Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ các công nghệ sạch, dẫn đến sự gia tăng đáng kể nhu cầu về khoáng sản chủ chốt. Các chính sách như "Kế hoạch Phát triển Ngành Công nghiệp Xe năng lượng mới (2021-2035)" và các động lực tăng trưởng kinh tế "Ba mặt hàng mới" đã thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường chuỗi cung ứng khoáng sản chủ chốt. Châu Phi đã trở thành một nguồn cung cấp quan trọng. Ví dụ, gần 90% lượng coban của Trung Quốc được nhập khẩu từ Cộng hòa Dân chủ Congo. Hoa Kỳ, nhằm giảm sự phụ thuộc vào khoáng sản chủ chốt từ Trung Quốc và đảm bảo an ninh quốc gia, rất cần đa dạng hóa chuỗi cung ứng khoáng sản chủ chốt. Châu Phi đã trở thành một đối tác quan trọng đối với nó.
Về các dự án đầu tư, Trung Quốc đã triển khai rộng rãi trong các ngành công nghiệp khoáng sản chủ chốt ở châu Phi. Năm 2023, các dự án liên quan đến đồng ở Cộng hòa Dân chủ Congo có giá trị hơn 2 tỷ đô la Mỹ (tương đương khoảng 143,31 tỷ nhân dân tệ), ở Botswana là gần 2 tỷ đô la Mỹ và cũng có các dự án quy mô lớn như khai thác lithium ở Mali và Zimbabwe. Đồng thời, Trung Quốc là trung tâm toàn cầu về nhập khẩu, tinh chế và chế biến khoáng sản chủ chốt. Nó chiếm 85-90% sản lượng tinh chế và chế biến nguyên tố đất hiếm toàn cầu. Về xuất khẩu khoáng sản chủ chốt ở châu Phi, Trung Quốc là nhà nhập khẩu lớn nhất của nhiều khoáng sản, chẳng hạn như 72% coban và 28% than chì. Hai bên đã hình thành mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.
Hoa Kỳ, thông qua các tổ chức như Tổng công ty Tài chính Phát triển Quốc tế (DFC), đã đầu tư vào nhiều dự án ở châu Phi để tăng cường chuỗi cung ứng khoáng sản chủ chốt. Ví dụ, nó đã đầu tư vào "Dự án Hành lang Đường sắt Lobito". Nó cũng đã ký các bản ghi nhớ với các quốc gia như Angola và Zambia. Khi cung cấp vốn, DFC nhấn mạnh sự hợp tác với khu vực tư nhân và nhấn mạnh các tiêu chuẩn về môi trường, xã hội và quản trị (ESG). Điều này trái ngược với mô hình do Trung Quốc sử dụng, trong đó các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo, đầu tư được thúc đẩy bởi nhà nước và thường phải đối mặt với những chỉ trích do các vấn đề tuân thủ ESG.
Nhìn về phía trước, lập trường của chính quyền Trump mới về chuỗi cung ứng khoáng sản quan trọng ở châu Phi vẫn chưa rõ ràng. Mặc dù họ có ý định có được các khoáng sản quan trọng, chẳng hạn như đề xuất hợp tác với Greenland và thảo luận về việc mua lại khoáng sản với Ukraine, nhưng vẫn còn sự không chắc chắn về việc liệu họ có tiếp tục các biện pháp của chính quyền Biden trong sự tham gia ngoại giao và kinh tế với châu Phi hay không. Trung Quốc dự kiến sẽ tiếp tục mở rộng sự tham gia của mình vào lĩnh vực khoáng sản quan trọng ở châu Phi. Vai trò của châu Phi trong chuỗi cung ứng khoáng sản quan trọng của Mỹ đầy rẫy những bất ổn và tình hình cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ trong lĩnh vực khoáng sản quan trọng ở châu Phi sẽ tiếp tục và có thể phát triển.
Châu Âu: Một biến số quan trọng trong cuộc cạnh tranh đất hiếm giữa Trung Quốc và Mỹ?
Vào ngày 17 tháng 4 năm 2025, Trung tâm Phân tích Chính sách Trung Quốc-Châu Âu đã công bố báo cáo "Khoáng sản đất hiếm: Trung Quốc + Thuế quan = Khủng hoảng". Bài viết nêu rõ rằng gần đây, Trung Quốc đã đình chỉ xuất khẩu sáu loại khoáng sản đất hiếm, gây ra một thách thức nghiêm trọng cho các ngành công nghiệp phương Tây. Giữa việc dựa vào nguồn cung của Trung Quốc và tìm kiếm các giải pháp độc lập, phương Tây đang ở một ngã rẽ quan trọng.
Để ứng phó với tình trạng khan hiếm do các hạn chế của Trung Quốc đối với xuất khẩu đất hiếm, châu Âu đã tập trung vào việc phát triển các công nghệ và năng lực sản xuất mới để tái chế. "Đạo luật Nguyên liệu thô quan trọng" do đó đã ra đời, đặt ra các mục tiêu cho khai thác, chế biến và tái chế trong nước, đồng thời giảm sự phụ thuộc vào một nhà cung cấp duy nhất. Ủy ban châu Âu đã khởi động 47 dự án chiến lược tại 13 quốc gia thành viên để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của các khoáng sản chủ chốt.
Trong thực tế, một số doanh nghiệp và dự án chuyên về tái chế đất hiếm đã xuất hiện trên khắp châu Âu. Heraeus Remloy ở Đức đã xây dựng nhà máy tái chế nam châm đất hiếm lớn nhất ở châu Âu, nhằm tăng đáng kể năng lực sản xuất để đáp ứng hơn 30% nhu cầu nam châm mới ở châu Âu; Carmag ở Pháp đã xây dựng một cơ sở tái chế quy mô lớn, với mục tiêu tái chế một lượng lớn đất hiếm và sản xuất một lượng đáng kể oxit đất hiếm nặng hàng năm; Ionic Technologies ở Anh đã phát triển một quy trình được cấp bằng sáng chế để thu hồi các nguyên tố chủ chốt từ thiết bị ngừng hoạt động; Hydrometal ở Bỉ sử dụng chuyên môn của mình để tái chế các nguyên tố đất hiếm phải chịu các hạn chế xuất khẩu từ Trung Quốc; NeoPerformanceMaterials ở Estonia và RarEarth ở Ý tập trung vào việc tái chế động cơ điện. Những nỗ lực này nhằm mục đích xây dựng một chiến lược kinh tế tuần hoàn toàn diện, giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu và tăng cường khả năng phục hồi của châu Âu trong lĩnh vực đất hiếm.
Tóm lại, Trung Quốc sẽ tiếp tục thống trị nguồn cung đất hiếm toàn cầu trong ngắn hạn. Tuy nhiên, trong trung và dài hạn, nó cũng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức: Một mặt, khi các quốc gia khác đẩy nhanh sản xuất và đột phá công nghệ, và khi khả năng thay thế và tái chế khoáng sản chiến lược của cộng đồng quốc tế liên tục được cải thiện, thị phần của Trung Quốc có thể bị thu hẹp; mặt khác, các biện pháp đối phó kiểm soát xuất khẩu và ma sát địa chính trị cũng có thể làm tăng thêm sự bất ổn của ngành. Trung Quốc không chỉ cần đẩy nhanh việc cải thiện việc phát triển tài nguyên và bố trí đổi mới công nghệ dài hạn, mà còn phải tăng cường giám sát và trấn áp nạn buôn lậu đất hiếm, cải thiện tính minh bạch của chuỗi công nghiệp, để đảm bảo an ninh chuỗi cung ứng và củng cố vị thế dẫn đầu của ngành.